Quý khách thân mến! Mọi tài liệu trên trang web này đều được dịch từ các ngôn ngữ khác nhau. Chúng tôi xin cáo lỗi nếu chất lượng các bản dịch này không như ý, đồng thời cũng hy vọng rằng Quý khách sẽ thu được lợi ích từ trang web của chúng tôi. Trân trọng, Ban quản trị Website. E-mail: admin@vnmedbook.com

U ác tính tiên tiến: Thử nghiệm đột phá có thể biến đổi điều trị

Kết quả từ hai thử nghiệm lâm sàng quốc tế có thể biến đổi điều trị u ác tính tiên tiến, loại ung thư da nguy hiểm nhất. Nhưng hiện nay, bệnh nhân u ác tính mà ung thư đã lan rộng đến một tương lai không chắc chắn và thường ảm đạm.

bác sĩ kiểm tra nốt ruồi

Nhưng hiện nay, các chuyên gia báo cáo kết quả thử nghiệm nói rằng các liệu pháp mới được thử nghiệm sẽ làm giảm nguy cơ tái phát bệnh và cải thiện sự sống còn cho nhiều bệnh nhân.

Các nhà nghiên cứu gần đây đã trình bày những phát hiện của các thử nghiệm tại Hội nghị Ung thư Y tế Châu Âu 2017, được tổ chức tại Madrid, Tây Ban Nha. Họ cũng được xuất bản trong.

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng liệu pháp miễn dịch và liệu pháp nhắm mục tiêu có thể điều trị thành công bệnh nhân u ác tính mà ung thư đã đạt đến giai đoạn tiến triển (giai đoạn IV) nhưng không thể loại bỏ bằng phẫu thuật.

Liệu pháp miễn dịch là phương pháp điều trị giúp tăng cường hệ thống miễn dịch và các liệu pháp nhắm mục tiêu nhắm vào các gen bệnh hoặc protein cụ thể liên kết với chúng.

Tuy nhiên, hai thử nghiệm mới là lần đầu tiên trên thế giới cung cấp cho bệnh nhân u ác tính lựa chọn điều trị ở giai đoạn sớm của bệnh với mục tiêu ngăn ngừa lây lan và tái phát.

“Kết quả từ những thử nghiệm lâm sàng cho thấy chúng ta có thể ngăn chặn bệnh trong các ca khúc của nó – ngăn chặn nó lây lan và cứu sống”, tác giả nghiên cứu giáo sư Georgina Long, chủ tịch ung thư u ác tính và nghiên cứu dịch tại Đại học Sydney ở Úc, cho biết. người đã làm cả hai thử nghiệm.

U ác tính di căn khó điều trị hơn

U ác tính chủ yếu là ung thư da, nhưng nó cũng có thể phát sinh ở đâu đó trong cơ thể, chẳng hạn như mắt. Nó bắt đầu trong các tế bào được gọi là melanocytes, sản xuất melanin – sắc tố cung cấp cho da, tóc và mắt màu của chúng. Tiếp xúc với ánh sáng cực tím, chẳng hạn như từ mặt trời hoặc giường thuộc da, là một yếu tố nguy cơ chính đối với u ác tính.

Mặc dù nó ít phổ biến hơn so với nhiều loại ung thư da khác, u ác tính là “nhiều khả năng phát triển và lây lan.” Hầu hết các trường hợp ung thư tử vong do di căn, đó là giai đoạn bệnh trong đó các tế bào ung thư thoát khỏi khối u ban đầu và làm phát sinh các khối u thứ phát nặng hơn trong các bộ phận khác của cơ thể.

Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ các trường hợp u ác tính mới tăng gấp đôi từ năm 1982 đến năm 2011, một năm trong đó hơn 65.000 người phát hiện ra rằng họ mắc bệnh và hơn 9.000 người chết vì nó.

Tại Úc, nơi Giáo sư Long cũng là giám đốc y khoa liên kết của Viện Melanoma Úc, tỷ lệ khối u ác tính là một trong những cao nhất trên thế giới. Trong năm 2017, gần 14.000 người trong nước được dự đoán sẽ được chẩn đoán mắc bệnh và hơn 1.800 người sẽ chết vì bệnh này.

Nếu phát hiện sớm, có một cơ hội rất tốt để chữa khối u ác tính thông qua việc loại bỏ phẫu thuật của khối u chính. Tuy nhiên, trong khoảng 10 phần trăm các trường hợp, ung thư được phát hiện quá muộn và đã tạo ra các khối u thứ cấp (di căn).

Bệnh nhân u ác tính có nguy cơ tái phát cao thường được cho dùng thuốc để ngăn ngừa di căn sau khi điều trị ung thư ban đầu, chẳng hạn như sau phẫu thuật. Hai thử nghiệm đã thử nghiệm hai loại liệu pháp bổ trợ khác nhau cho u ác tính tiên tiến.

Thử nghiệm COMBI-AD

Trong thử nghiệm COMBI-AD, các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm kết hợp hai loại thuốc – dabrafenib và trametinib – chống lại giả dược như một liệu pháp sau phẫu thuật cho bệnh nhân u ác tính giai đoạn III, đột biến gen BRAF, và được cho là có nguy cơ cao của sự tái diễn.

Kết quả cho thấy so sánh với giả dược, sự kết hợp dẫn đến “nguy cơ tái phát thấp hơn đáng kể” và cải thiện tỉ lệ sống. Họ cũng cho thấy không có tác dụng độc hại mới từ các loại thuốc được sử dụng kết hợp.

Thử nghiệm mù đôi, giả dược được chỉ định ngẫu nhiên cho 870 bệnh nhân nhận 12 tháng hoặc kết hợp dabrafenib (liều uống 150 mg hai lần mỗi ngày) và trametinib (với liều 2 mg mỗi ngày một lần), hoặc hai viên thuốc giả dược phù hợp.

Kết quả cho thấy 58% bệnh nhân sống sót sau trung bình 2,8 năm và không tái phát, so với 39% ở nhóm dùng giả dược – giảm nguy cơ 53%.

Nhóm điều trị phối hợp cũng cho thấy tỷ lệ sống tổng thể trong 3 năm được cải thiện (có nghĩa là, giảm 43% nguy cơ), “sự sống sót không di căn xa xôi được cải thiện, và tự do tái phát.”

CheckMate 238 dùng thử

Trong thử nghiệm CheckMate 238, nhóm nghiên cứu phát hiện ra rằng thuốc nivolumab an toàn hơn và hiệu quả hơn trong điều trị những bệnh nhân đã phẫu thuật u ác tính giai đoạn III và giai đoạn IV so với tiêu chuẩn hiện hành của thuốc chăm sóc ipilimumab. Nó cũng phát hiện ra rằng nivolumab dẫn đến “sự sống sót không còn tồn tại lâu hơn đáng kể”.

Cả hai loại thuốc này đều là thuốc ức chế miễn dịch được chấp thuận cho điều trị u ác tính tiên tiến. Họ nhắm mục tiêu một chuyển đổi trên các tế bào miễn dịch để tăng cường cuộc tấn công vào các tế bào ung thư.

Đối với thử nghiệm mù đôi, các nhà nghiên cứu tuyển dụng 906 bệnh nhân đang trải qua phẫu thuật để loại bỏ hoàn toàn giai đoạn III hoặc giai đoạn IV u ác tính và được coi là có nguy cơ tái phát cao.

Họ được phân ngẫu nhiên để tiêm truyền tĩnh mạch 3 mg nivolumab mỗi kg trọng lượng cơ thể mỗi 2 tuần, hoặc 10 miligam ipilimumab mỗi kg mỗi 3 tuần cho 4 liều và sau đó mỗi 12 tuần, trong thời gian lên đến 1 năm.

Ủy ban giám sát thử nghiệm đã dừng nó vì kết quả tạm thời cho thấy bằng chứng rõ ràng về lợi ích của nivolumab so với ipilimumab. Sau 18 tháng, tỷ lệ sống sót không còn tồn tại với nivolumab là 66,4%, trong khi ipilimumab chỉ là 52,7%.

Điều tra viên chính Jeffrey S.Weber, phó giám đốc Trung tâm Ung thư Perlmutter thuộc Trường Y khoa Đại học New York, nói rằng những kết quả này cho thấy rằng “nivolumab có hiệu quả hơn trong điều trị bệnh nhân u ác tính giai đoạn III và IV, giảm nguy cơ tái phát bởi 1/3”.

Như Giáo sư Long kết luận, “Mục tiêu cuối cùng của chúng tôi là làm cho khối u ác tính trở thành bệnh mãn tính chứ không phải là bệnh giai đoạn cuối bây giờ đã tiến gần hơn đến mức đạt được.”

“Kết quả như thế này sẽ thay đổi cách chúng ta thực hành y học.”

Jeffrey S. Weber

Like this post? Please share to your friends: