Quý khách thân mến! Mọi tài liệu trên trang web này đều được dịch từ các ngôn ngữ khác nhau. Chúng tôi xin cáo lỗi nếu chất lượng các bản dịch này không như ý, đồng thời cũng hy vọng rằng Quý khách sẽ thu được lợi ích từ trang web của chúng tôi. Trân trọng, Ban quản trị Website. E-mail: admin@vnmedbook.com

Quét PET: Sử dụng, rủi ro và thủ tục

Chụp cắt lớp phát xạ positron, còn được gọi là chụp PET, sử dụng bức xạ để hiển thị hoạt động trong cơ thể ở mức tế bào.

Nó thường được sử dụng trong điều trị ung thư, thần kinh học và tim mạch.

Kết hợp với CT hoặc MRI quét, một PET scan có thể tạo ra hình ảnh đa chiều, màu sắc của các hoạt động bên trong của cơ thể con người.

Nó cho thấy không chỉ những gì một cơ quan trông giống như, nhưng nó hoạt động như thế nào.

Chụp PET được sử dụng để chẩn đoán một số tình trạng sức khỏe nhất định, để lên kế hoạch điều trị, để tìm hiểu xem tình trạng hiện tại đang phát triển như thế nào, và để xem hiệu quả điều trị là như thế nào.

Sự kiện nhanh về quét PET

Dưới đây là một số điểm chính về quét PET. Chi tiết hơn nằm trong bài viết chính.

  • Việc quét PET thường được sử dụng để chẩn đoán tình trạng hoặc theo dõi tình trạng của nó.
  • Được sử dụng cùng với CT hoặc MRI quét, nó có thể cho thấy một phần của cơ thể đang hoạt động như thế nào.
  • Chụp PET thường được sử dụng để điều tra bệnh động kinh, bệnh Alzheimer, ung thư và bệnh tim
  • Việc quét không gây đau, nhưng bệnh nhân không nên tiêu thụ bất kỳ thức ăn nào trong ít nhất 4 đến 6 giờ trước khi chụp. Họ nên uống nhiều nước.

Làm thế nào nó hoạt động

Quét thú vật

Trong quá trình quét PET, một máy phát hiện bức xạ được phát ra bởi một máy phóng xạ.

Một chất phóng xạ bao gồm chất phóng xạ được gắn vào một hóa chất tự nhiên, chẳng hạn như glucose.

Chất phóng xạ này được tiêm vào cơ thể, nơi nó di chuyển đến các tế bào sử dụng glucose cho năng lượng.

Càng nhiều năng lượng mà một nhóm tế bào cần, càng có nhiều chất phóng xạ sẽ tích tụ ở vị trí đó. Điều này sẽ hiển thị trên hình ảnh được xây dựng lại bởi một máy tính.

Các ô hoặc hoạt động sẽ hiển thị dưới dạng “điểm nóng” hoặc “các điểm lạnh”.

Các khu vực hoạt động sáng lên khi chụp PET. Chúng được gọi là “điểm nóng”.

Khi các tế bào cần ít năng lượng hơn, các khu vực sẽ ít sáng hơn. Đây là những “điểm lạnh”.

So với các tế bào bình thường, các tế bào ung thư rất tích cực trong việc sử dụng glucose, vì vậy một chất phóng xạ được tạo ra với glucose sẽ làm sáng các vùng ung thư.

Một bác sĩ X quang sẽ kiểm tra hình ảnh được tạo ra trên máy tính, và báo cáo những phát hiện cho một bác sĩ.

Một ví dụ về chất phóng xạ dựa trên glucose là fluorodeoxyglucose (FDG). Trong FDG, các phân tử fluoride phóng xạ được gắn vào glucose để tạo ra một chất phóng xạ. FDG là chất phóng xạ được sử dụng phổ biến nhất hiện nay.

Thay vì glucose, oxy có thể được sử dụng.

Sử dụng

Tiên lượng PET

Quét PET thường được sử dụng với CT hoặc MRI quét để giúp chẩn đoán hoặc để có thêm dữ liệu về tình trạng sức khỏe và tiến trình điều trị bất kỳ.

Trong khi chụp MRI hoặc CT cho thấy một phần của cơ thể trông như thế nào, một lần chụp PET có thể tiết lộ cách hoạt động của nó.

PET quét thường được sử dụng để điều tra một số điều kiện.

Bệnh động kinh: Nó có thể tiết lộ phần nào của não động kinh đang ảnh hưởng.

Điều này có thể giúp các bác sĩ quyết định cách điều trị phù hợp nhất và có thể hữu ích nếu phẫu thuật là cần thiết.

Bệnh Alzheimer: Chụp PET có thể giúp chẩn đoán bệnh Alzheimer bằng cách đo sự hấp thu đường trong các phần cụ thể của não.

Các tế bào não bị ảnh hưởng bởi bệnh Alzheimer có xu hướng sử dụng glucose chậm hơn so với các tế bào bình thường.

Ung thư: Chụp PET có thể tiết lộ sự hiện diện và giai đoạn của bệnh ung thư, cho biết liệu và nơi nó đã lan rộng, và giúp các bác sĩ quyết định điều trị.

Việc chụp PET có thể cho biết cách hóa trị liệu hoạt động tốt như thế nào và nó có thể phát hiện khối u tái phát sớm hơn các kỹ thuật khác.

Bệnh tim: Chụp PET có thể giúp phát hiện những phần nào của tim bị tổn thương hoặc sẹo, và nó có thể giúp xác định các vấn đề tuần hoàn trong hoạt động của tim.

Thông tin này có thể giúp lên kế hoạch lựa chọn điều trị cho bệnh tim.

Nghiên cứu y học: Các nhà nghiên cứu có thể tìm hiểu thông tin quan trọng bằng cách sử dụng quét PET, đặc biệt là về hoạt động của não.

Sự khác biệt giữa PET, CT và MRI quét

Chụp CT hoặc MRI có thể đánh giá kích thước và hình dạng của các cơ quan và mô cơ thể, nhưng họ không thể đánh giá cách thức hoạt động của chúng.

Việc chụp PET có thể cho thấy cơ quan hoạt động như thế nào, nhưng không có hình ảnh CT hoặc MRI, có thể khó xác định vị trí chính xác của hoạt động trong cơ thể.

Kết hợp chụp PET với chụp CT có thể cho hình ảnh rõ nét hơn về tình trạng của bệnh nhân

Thủ tục

Hình ảnh PET

Chụp PET thường là một thủ thuật ngoại trú.

Thông thường, bệnh nhân không nên ăn bất kỳ thức ăn nào trong ít nhất 4 đến 6 giờ trước khi quét, nhưng họ nên uống nhiều nước. Họ có thể phải tránh caffein trong ít nhất 24 giờ trước khi quét.

Đầu tiên, bác sĩ sẽ tiêm một lượng nhỏ chất phóng xạ vào tĩnh mạch. Dấu vết cũng có thể được hít vào dưới dạng khí, được uống bằng miệng hoặc tiêm trực tiếp vào cơ quan.

Tùy thuộc vào cơ quan nào có liên quan, có thể mất từ ​​30 đến 90 phút để bộ tản nhiệt tiếp cận phần được nhắm mục tiêu của cơ thể.

Trong khi đó, bệnh nhân thường sẽ được yêu cầu ở lại và không nói chuyện. Một số bệnh nhân có thể được cho dùng thuốc để thư giãn.

Bệnh nhân có lẽ sẽ cần phải mặc một chiếc áo choàng, và họ có thể phải loại bỏ đồ trang sức.

Khi bệnh nhân đã sẵn sàng, họ sẽ được đưa đến một phòng quét đặc biệt để quét. Họ sẽ nằm xuống trên một bảng kiểm tra đệm.

Bảng trượt vào một lỗ lớn để bệnh nhân được bao quanh bởi máy.

Bệnh nhân sẽ phải ở lại càng lâu càng tốt. Họ có thể nghe nhạc.

Trong quá trình quét, máy sẽ chụp ảnh.

Tùy thuộc vào phần nào của cơ thể đang được quét, quá trình này sẽ mất khoảng 30 phút.

Nó không phải là đau đớn. Nếu bệnh nhân cảm thấy không khỏe, họ có thể bấm còi để báo cho nhân viên biết.

Một học viên đủ điều kiện sẽ theo dõi bệnh nhân trong quá trình quét.

Toàn bộ quy trình thử nghiệm thường mất khoảng 2 giờ. Hầu hết bệnh nhân có thể về nhà ngay khi quá trình quét kết thúc.

Bệnh nhân nên tiêu thụ nhiều chất lỏng để tuôn ra thuốc phóng xạ ra khỏi hệ thống của họ nhanh hơn. Các radiotracers nên đã rời khỏi cơ thể hoàn toàn trong vòng 3-4 giờ.

Rủi ro

Có nguy cơ tiếp xúc với bức xạ.

Đối với hầu hết mọi người, lợi ích của việc quét PET vượt quá những rủi ro.

Tuy nhiên, như một PET liên quan đến chất phóng xạ, nó không phù hợp cho tất cả mọi người.

Thông thường, một phụ nữ mang thai không nên chụp PET, vì chất phóng xạ có thể ảnh hưởng đến thai nhi hoặc trẻ sơ sinh.

Nếu một phụ nữ đang cho con bú sữa mẹ, cô ấy nên làm theo hướng dẫn để bơm và vứt bỏ sữa mẹ, và hỏi bác sĩ khi nó an toàn để tiếp tục cho con bú dựa trên thử nghiệm thực hiện.

Bất kỳ phụ nữ mang thai hoặc cho con bú nên nói với bác sĩ của mình ngay lập tức trước khi có một PET scan.

Sau khi chụp PET, bệnh nhân có thể được khuyên nên tránh xa phụ nữ có thai, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ trong vài giờ, vì phóng xạ có nguy cơ nhỏ.

Rất hiếm khi, một cá nhân có thể có phản ứng dị ứng với chất đánh dấu.

Like this post? Please share to your friends: