Quý khách thân mến! Mọi tài liệu trên trang web này đều được dịch từ các ngôn ngữ khác nhau. Chúng tôi xin cáo lỗi nếu chất lượng các bản dịch này không như ý, đồng thời cũng hy vọng rằng Quý khách sẽ thu được lợi ích từ trang web của chúng tôi. Trân trọng, Ban quản trị Website. E-mail: admin@vnmedbook.com

Những loại thuốc thông thường này có thể làm tăng nguy cơ mất trí nhớ

Một nghiên cứu mang tính bước ngoặt đã liên kết việc sử dụng lâu dài các loại thuốc kháng cholinergic nhất định với nguy cơ mất trí nhớ cao hơn sau này.

người phụ nữ nhìn vào thuốc

Cuộc điều tra này được cho là nghiên cứu “lớn nhất và chi tiết nhất” cho đến nay về việc sử dụng kháng acetylcholin lâu dài và nguy cơ sa sút trí tuệ.

Anticholinergics hoạt động bằng cách ngăn chặn một hóa chất sứ giả, hoặc chất dẫn truyền thần kinh, được gọi là acetylcholine mang tín hiệu não để kiểm soát cơ bắp.

Chúng được sử dụng để điều trị nhiều tình trạng khác nhau, từ bệnh Parkinson và mất kiểm soát bàng quang đối với bệnh hen suyễn, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và trầm cảm.

Thuốc kháng cholinergics cho trầm cảm, chẳng hạn như amitriptyline, dosulepin, và paroxetine, trước đó đã được liên kết với nguy cơ cao hơn của bệnh mất trí nhớ, ngay cả khi họ đã được sử dụng lên đến 20 năm trước.

Một số nghiên cứu cũng đã gợi ý rằng việc sử dụng bất kỳ kháng acetylcholin nào có liên quan đến nguy cơ mắc chứng mất trí.

Sử dụng lâu dài một số thuốc kháng cholinergics

Nhưng nghiên cứu mới – được dẫn đầu bởi Đại học East Anglia (UEA) ở Vương quốc Anh và hiện đang được công bố – phát hiện rằng việc sử dụng lâu dài chỉ một số loại kháng cholinergic nhất định có liên quan đến nguy cơ sa sút trí tuệ cao hơn.

Nó xác nhận liên kết để sử dụng lâu dài của thuốc kháng cholinergics cho trầm cảm, và cũng cho bệnh Parkinson (như procyclidine) và mất kiểm soát bàng quang (ví dụ, oxybutynin, solifenacin, và tolterodine).

Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy không có mối liên quan giữa nguy cơ sa sút trí tuệ và các thuốc kháng cholinergic khác, chẳng hạn như thuốc kháng histamine và thuốc cho đau bụng.

Để điều tra, các nhà nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu từ Cơ sở dữ liệu nghiên cứu thực hành lâm sàng, chứa các hồ sơ ẩn danh cho hơn 11 triệu người trên khắp Vương quốc Anh.

Kháng sinh nhận thức kháng acetylcholin

Số liệu được sử dụng trong phân tích bao gồm 40.770 bệnh nhân sa sút trí tuệ trong độ tuổi từ 65 đến 99 được chẩn đoán trong giai đoạn 2006-2015. Mỗi người trong số này đã được so sánh với bảy người không bị chứng mất trí nhưng những người cùng giới tính và tuổi tương tự.

Các nhà nghiên cứu đã sử dụng một hệ thống gọi là thang đo nhận thức kháng nguyên (ACB) để đánh giá hiệu quả kháng acetylcholin của các loại thuốc mà bệnh nhân đã được kê toa.

Điểm số 1 của ACB có nghĩa là một loại thuốc có thể là “có khả năng kháng cholinergic”, trong khi điểm số 2 hoặc 3 có nghĩa là nó “chắc chắn là kháng cholinergic”. Tổng cộng, họ phân tích hơn 27 triệu đơn thuốc.

Nhóm nghiên cứu đã xem xét các hồ sơ của bệnh nhân và kiểm soát phù hợp của họ để đếm tất cả các đơn thuốc và liều dùng cho các thuốc có điểm số 1–3 của ACB trong khoảng thời gian từ 4–20 năm trước khi chẩn đoán chứng mất trí.

Họ phát hiện ra rằng 35% bệnh nhân sa sút trí tuệ và 30% nhóm chứng đã được kê đơn ít nhất một loại thuốc với số điểm là 3 trên thang đo ACB trong thời gian đó.

Các nhà nghiên cứu sau đó tiến hành phân tích sâu hơn để đưa ra ảnh hưởng của các yếu tố có thể ảnh hưởng đến kết quả.

Phân tích sâu hơn cho thấy các loại thuốc có số điểm ACB là 3 đã được kê toa cho bệnh trầm cảm, bệnh Parkinson và mất kiểm soát bàng quang có liên quan đến nguy cơ mất trí nhớ cao hơn tới 20 năm sau khi phơi nhiễm.

Tuy nhiên, không tìm thấy liên kết như vậy đối với các loại thuốc ghi được 1 trên thang đo của ACB, cũng như đối với các loại thuốc đường hô hấp và tiêu hóa ghi được 3.

Các bác sĩ lâm sàng nên ‘thận trọng’

Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng do những hạn chế trong thiết kế nghiên cứu của họ, họ không thể nói liệu thuốc kháng cholinergic có trực tiếp gây mất trí nhớ hay không.

Một khả năng là những người dùng thuốc đã ở trong giai đoạn đầu của chứng mất trí.

Nhưng, bởi vì liên kết đã có mặt ngay cả khi phơi nhiễm diễn ra 15–20 năm trước khi chứng mất trí đã được chẩn đoán, các tác giả cho rằng “đảo ngược nguyên nhân hoặc gây nhầm lẫn với các triệu chứng sa sút sớm có ít khả năng giải thích.”

Họ khuyên các bác sĩ nên “tiếp tục thận trọng đối với việc sử dụng thuốc kháng cholinergic” và xem xét các tác dụng dài hạn và ngắn hạn có thể có khi họ cân nhắc rủi ro so với lợi ích.

Tầm quan trọng của nghiên cứu

Chứng mất trí ảnh hưởng đến khoảng 50 triệu người trên toàn thế giới và hàng năm, hơn 10 triệu người phát hiện ra rằng họ mắc bệnh, và cuối cùng sẽ cướp đi khả năng nhớ, suy nghĩ, tổ chức một cuộc trò chuyện và sống độc lập.

“Nghiên cứu này thực sự quan trọng”, nhà nghiên cứu George Savva, người làm việc tại Khoa Khoa học Y tế tại UEA, cho biết, vì ước tính có khoảng 350 triệu người bị ảnh hưởng toàn cầu do trầm cảm, và điều kiện bàng quang cần được điều trị hơn 13% nam giới và 30% phụ nữ ở Anh và [Hoa Kỳ]. “

“Nhiều lựa chọn điều trị cho những điều kiện này,” ông tiếp tục, “liên quan đến thuốc có tác dụng kháng acetylcholin.”

“Vì vậy, việc phát triển các chiến lược để ngăn ngừa bệnh mất trí nhớ là một ưu tiên toàn cầu”.

Tiến sĩ George Savva

Trong một bài báo biên tập có liên quan đến nghiên cứu, Giáo sư Shelly Grey, từ Đại học Washington ở Seattle, và Giáo sư Joseph Hanlon, từ Đại học Pittsburgh ở Pennsylvania, nói rằng các tác giả đã làm tốt công việc giải quyết vấn đề về cách tốt nhất để “tóm tắt gánh nặng anticholinergic cho nghiên cứu trong tương lai.”

Họ cũng đồng ý rằng, trong khi chờ đợi, “Theo đề nghị của các hướng dẫn, thuốc kháng cholinergics nói chung nên tránh ở người lớn tuổi.”

Like this post? Please share to your friends: