Quý khách thân mến! Mọi tài liệu trên trang web này đều được dịch từ các ngôn ngữ khác nhau. Chúng tôi xin cáo lỗi nếu chất lượng các bản dịch này không như ý, đồng thời cũng hy vọng rằng Quý khách sẽ thu được lợi ích từ trang web của chúng tôi. Trân trọng, Ban quản trị Website. E-mail: admin@vnmedbook.com

Những con số đằng sau béo phì

Thừa cân hoặc béo phì mang một loạt các hậu quả tiêu cực về sức khỏe. Ở Mỹ và xa hơn, trong những thập kỷ gần đây, tỷ lệ béo phì đã tăng lên đáng kể. Ở đây chúng ta nhìn vào những con số đằng sau sự gia tăng.

Các nguy cơ sức khỏe liên quan đến béo phì là rất nhiều; chúng bao gồm một nguy cơ tử vong gia tăng tổng thể từ tất cả các nguyên nhân, tăng huyết áp, tiểu đường loại 2, bệnh tim, đột quỵ, viêm xương khớp và bệnh tâm thần.

Bởi vì béo phì có liên quan đến một loạt các vấn đề sức khỏe như vậy, việc hiểu những con số đằng sau xu hướng này quan trọng hơn bao giờ hết.

Hiện nay, khoảng 36 phần trăm người trưởng thành Mỹ béo phì – hơn 1 phần 3. Và trên toàn cầu, hơn 1 trong 10 người bị béo phì.

Trong bài viết này, chúng tôi xem xét các sự kiện và số liệu đằng sau bệnh béo phì ở Mỹ và trên thế giới nói chung, bao gồm sự cố của các quốc gia, quốc gia, độ tuổi và giới tính.

Xác định “béo phì”

Thước dây cuốn

Thứ nhất, điều quan trọng là phải hiểu cách béo phì được xác định. Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) xác định béo phì là BMI từ 30 trở lên (tìm máy tính BMI của chúng tôi tại đây).

Béo phì được chia thành:

  • béo phì lớp 1: BMI 30–34
  • béo phì lớp 2: BMI 35–39
  • lớp 3 (béo phì “hoặc” nghiêm trọng “) béo phì: BMI 40 hoặc cao hơn

Ở trẻ em, thừa cân và béo phì được xác định theo biểu đồ tăng trưởng của CDC. Đối với trẻ em và thanh thiếu niên từ 2–19 tuổi:

  • 85 phần trăm hoặc cao hơn: Thừa cân
  • 95 phần trăm hoặc cao hơn: Béo phì
  • tại hoặc trên 120 phần trăm của tỷ lệ phần trăm thứ 95: Béo phì cực đoan

Số liệu thống kê béo phì: Hoa Kỳ

Những con số này đến từ Khảo sát kiểm tra sức khỏe và dinh dưỡng quốc gia (NHANES) do Trung tâm Thống kê Y tế Quốc gia (NCHS) thực hiện:

Đàn ông

  • thừa cân: 38,7%
  • béo phì (bao gồm béo phì cực đoan): 35%
  • béo phì cực đoan: 5,5%

Đàn bà

  • thừa cân: 26,5%
  • béo phì (kể cả béo phì cực đoan): 40,4%
  • béo phì cực đoan: 9,9%

Béo phì theo sắc tộc

Béo phì không ảnh hưởng đến tất cả các chủng tộc ở Hoa Kỳ. Phần sau đây cho biết tỷ lệ phần trăm người béo phì ở mỗi nhóm:

  • người da đen không phải gốc Tây Ban Nha – 48,1%
  • Người gốc Tây Ban Nha – 42,5%
  • người da trắng không phải gốc Tây Ban Nha – 34,5%
  • người gốc Châu Á không phải gốc Tây Ban Nha – 11,7%

Béo phì theo độ tuổi

Béo phì không được chia đều cho tất cả các nhóm tuổi:

  • 20–39 – 32,3%
  • 40–59 – 40,2%
  • 60 trở lên – 37,0%

Béo phì ở trẻ em

Một bài báo, xuất bản vào năm 2016, đã đo lường từ 40.780 trẻ em và thanh thiếu niên, tuổi từ 2-19 giữa năm 2013 và 2014. Hơn tất cả, 17 phần trăm bị béo phì và 5,8 phần trăm có béo phì cực đoan.

Phá vỡ các nhóm tuổi xuống hơn nữa:

  • Tuổi 2–5 năm – 9,4% béo phì và 1,7% béo phì cực đoan.
  • Tuổi từ 6-11 năm – 19,6% béo phì và 4,3% béo phì cực đoan.
  • Tuổi từ 12-19 tuổi – 20,6% béo phì và 9,1% béo phì cực đoan.

Tỷ lệ béo phì của nhà nước

Cờ Colorado

Sử dụng dữ liệu từ CDC, Nhà nước Béo phì đã biên soạn tỷ lệ béo phì cho từng bang cho năm 2016. Mức giá cao nhất được tìm thấy trong:

1. Tây Virginia – 37,7 phần trăm

2. Mississippi – 37,3%

3. Alabama – 35,7%

4. Arkansas – 35,7%

5. Louisiana – 35,5%

Các quốc gia có tỷ lệ béo phì thấp nhất là:

47. California – 25,0%

48. Hawaii – 23,8%

49. Massachusetts – 23,6%

50. Quận Columbia – 22,6%

51. Colorado – 22,3%

Béo phì và tình trạng kinh tế xã hội

Ở nam giới, không có mối liên hệ nào được tìm thấy giữa trình độ học vấn và béo phì. Tuy nhiên, ở phụ nữ, những người có trình độ đại học ít có khả năng bị béo phì hơn những người không có.

Tương tự, phụ nữ có thu nhập cao hơn ít bị béo phì hơn phụ nữ có thu nhập thấp hơn.

Ngược lại, ở những người đàn ông da đen và người Mỹ gốc Mexico không phải gốc Tây Ban Nha, những người có thu nhập cao hơn có nhiều khả năng bị béo phì hơn những người có thu nhập thấp.

Chi phí béo phì

Bên cạnh những nguy hiểm rõ ràng đối với sức khỏe, béo phì là cực kỳ tốn kém theo nghĩa tài chính. Trong năm 2008, chi phí y tế hàng năm ước tính là 147 tỷ đô la.

Những người bị béo phì có chi phí y tế trung bình là $ 1,429 nhiều hơn so với những người có trọng lượng bình thường.

Số liệu thống kê béo phì: Toàn cầu

Trong lịch sử, béo phì đã được coi là một vấn đề ở các nước có thu nhập cao. Tuy nhiên, béo phì ở các nước thu nhập thấp và trung bình đang gia tăng, đặc biệt là ở các khu vực đô thị.

Một số quốc gia này đang đối mặt với những gì Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) mô tả như một gánh nặng bệnh tật gấp đôi:

“Không phải là hiếm khi tìm thấy sự thiếu dinh dưỡng và béo phì cùng tồn tại trong cùng một quốc gia, cùng một cộng đồng, và cùng một hộ gia đình.”

Theo WHO, trên cơ sở toàn cầu, béo phì đã tăng gần gấp ba kể từ năm 1975. Trong cùng khoảng thời gian, trong khung tuổi 5-19, béo phì đã tăng từ dưới 1% lên 7%. Họ viết, “Hầu hết dân số thế giới sống ở những nước thừa cân và béo phì giết nhiều người hơn là thiếu cân.”

Trong năm 2016, hơn 1,9 tỷ người lớn (39%) bị thừa cân và, trong số này, hơn 650 triệu (13%) bị béo phì.

Số liệu toàn cầu theo giới tính:

  • Thừa cân – 39% đàn ông, 40% phụ nữ.
  • Béo phì – 11% đàn ông, 15% phụ nữ.

Trẻ em và béo phì

Béo phì là một mối quan tâm ngày càng tăng, trên toàn cầu.

  • Ở châu Phi, số trẻ em dưới 5 tuổi bị thừa cân đã tăng gần 50% kể từ năm 2000.
  • Gần một nửa số trẻ em béo phì hoặc béo phì dưới 5 tuổi sống ở châu Á.
  • Trên toàn cầu, 41 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị thừa cân.
  • 340 triệu người trong độ tuổi 5-19 bị thừa cân hoặc béo phì.

Tỷ lệ béo phì theo quốc gia

Cờ và bản đồ Việt Nam

Theo số liệu của WHO thu thập trong năm 2016, các quốc gia sau đây có tỷ lệ béo phì cao nhất:

1. Nauru – 61%

2. Quần đảo Cook – 55,9%

3. Palau – 55,3%

4. Quần đảo Marshall – 52,9%

5. Tuvalu – 51,6%

6. Niue – 50%

7. Tonga – 48,2%

8. Samoa – 47,3%

9. Kiribati – 46%

10. Micronesia – 45,8%

11. Kuwait – 37,9%

12. Hoa Kỳ – 36,2%

Tỷ lệ béo phì cao được tìm thấy ở quần đảo Thái Bình Dương chủ yếu là do sự thay đổi từ chế độ ăn truyền thống đối với thực phẩm nhập khẩu từ các nước như Trung Quốc, Malaysia và Philippines.

“Khuyến khích các loại thực phẩm truyền thống đã giảm dần theo cách bên lề. Họ không thể cạnh tranh với sự quyến rũ và hào nhoáng của thực phẩm nhập khẩu.”

Tiến sĩ Temo K. Waqanivalu, cán bộ kỹ thuật của WHO, Fiji

Tỷ lệ béo phì thấp nhất được đo bằng:

1. Việt Nam – 2,1%

2. Bangladesh – 3,6%

3. Đông Timor – 3,8%

4. Ấn Độ – 3,9%

5. Campuchia – 3,9%

6. Nepal – 4,1 phần trăm

7. Nhật Bản – 4.3%

8. Ethiopia – 4,5%

9. Hàn Quốc – 4,7%

10. Eritrea – 5 phần trăm

11. Sri Lanka – 5,2 phần trăm

12. Uganda – 5,3%

13. Madagascar – 5.3%

Kết luận

Béo phì và thừa cân là những vấn đề quan trọng đang ngày càng tồi tệ trên khắp hành tinh. Điều quan trọng cần lưu ý là các tình trạng liên quan đến béo phì là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong, nhưng béo phì hầu như luôn có thể ngăn ngừa được.

Like this post? Please share to your friends: