Quý khách thân mến! Mọi tài liệu trên trang web này đều được dịch từ các ngôn ngữ khác nhau. Chúng tôi xin cáo lỗi nếu chất lượng các bản dịch này không như ý, đồng thời cũng hy vọng rằng Quý khách sẽ thu được lợi ích từ trang web của chúng tôi. Trân trọng, Ban quản trị Website. E-mail: admin@vnmedbook.com

Đa xơ cứng: Những điều bạn cần biết

Bệnh đa xơ cứng là một căn bệnh kinh niên tấn công hệ thần kinh trung ương. Nó ảnh hưởng đến não, tủy sống và thần kinh thị giác.

Các triệu chứng lan rộng. Trong trường hợp nhẹ hơn, có thể bị tê ở chân tay. Trường hợp nặng có thể bao gồm liệt hoặc mất thị lực.

Không thể dự đoán xem bệnh đa xơ cứng sẽ tiến triển như thế nào ở bất kỳ cá nhân nào.

Hơn 400.000 người ở Hoa Kỳ (Mỹ) có MS và khoảng 10.000 trường hợp mới được chẩn đoán mỗi năm.

Nó phổ biến ở phụ nữ hơn hai đến ba lần so với nam giới và chẩn đoán thường xảy ra trong độ tuổi từ 20 đến 50.

Dữ kiện nhanh về đa xơ cứng

Dưới đây là một số điểm chính về bệnh đa xơ cứng. Chi tiết hơn nằm trong bài viết chính.

  • Đa xơ cứng ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương.
  • Chẩn đoán thường xảy ra trong độ tuổi từ 20 đến 50 năm.
  • Không thể dự đoán được bệnh sẽ tiến triển như thế nào.
  • Các triệu chứng nhẹ bao gồm ngứa ran và tê, nhưng trường hợp nặng có thể liên quan đến mất thị lực và tê liệt.
  • Không có cách chữa trị, nhưng việc điều trị có thể làm giảm các triệu chứng và giúp người đó quản lý cuộc sống hàng ngày của họ.

MS là gì?

đa xơ cứng ảnh hưởng đến tế bào thần kinh

MS ảnh hưởng đến hệ thống thần kinh trung ương (CNS), nhưng chính xác lý do tại sao xảy ra là không rõ ràng.

Trong CNS, các sợi thần kinh được bao quanh bởi vỏ bọc myelin, bảo vệ chúng. Myelin cũng giúp các dây thần kinh tiến hành tín hiệu điện nhanh chóng và hiệu quả. Trong MS, vỏ myelin biến mất ở nhiều vùng, để lại sẹo, hoặc xơ cứng.

Đa xơ cứng có nghĩa là “mô sẹo ở nhiều khu vực.”

Các khu vực không có myelin hoặc thiếu myelin được gọi là mảng hoặc tổn thương. Khi các tổn thương trở nên tồi tệ hơn, các sợi thần kinh có thể bị vỡ hoặc bị hư hại. Kết quả là, các xung điện từ não không chảy suốt đến dây thần kinh đích.

Khi không có myelin, các sợi không thể tiến hành các xung điện. Các thông điệp từ não đến cơ bắp không thể được truyền đi.

Các loại MS

Có bốn loại MS:

Hội chứng phân lập lâm sàng (CIS): Đây là một tập đầu tiên, có triệu chứng kéo dài ít nhất 24 giờ.

Relapse-remitting MS (RRMS): Đây là dạng phổ biến nhất, ảnh hưởng đến khoảng 85% người mắc bệnh MS và liên quan đến các cuộc tấn công của các triệu chứng mới hoặc ngày càng tăng.

MS tiến triển chính (PPMS): Các triệu chứng trầm trọng dần dần, không tái phát sớm hoặc thuyên giảm. Khoảng 15% các trường hợp là PPMS.

MS tiến triển thứ cấp (SPMS): Sau giai đoạn đầu hoặc tái phát và thuyên giảm, bệnh tiến triển đều đặn.

Triệu chứng

MS ảnh hưởng đến CNS, kiểm soát tất cả các hành động trong cơ thể. Khi các sợi thần kinh mang thông điệp đến và ra khỏi não bị tổn thương, các triệu chứng có thể xảy ra ở bất kỳ phần nào của cơ thể.

Đối với một số bệnh nhân, các triệu chứng nhẹ đến nỗi họ không nhận thấy bất cứ điều gì cho đến sau này trong quá trình bệnh. Những người khác có thể nhận thức được triệu chứng của họ trong giai đoạn đầu.

Các triệu chứng tổng thể của MS là:

  • yếu cơ
  • rối loạn thị giác
  • khó khăn với sự phối hợp và cân bằng
  • tê và ngứa ran, như trong “chân và kim”
  • vấn đề với suy nghĩ và trí nhớ

Ảnh hưởng của MS

Chúng có thể dẫn đến:

Vấn đề về bàng quang: Có thể gặp khó khăn khi làm rỗng bàng quang hoàn toàn, đi tiểu thường xuyên và đôn đốc không kiểm soát được.

Vấn đề về ruột: Táo bón có thể dẫn đến sự phân hủy của phân, và điều này có thể dẫn đến tình trạng không kiểm soát ruột.

Mệt mỏi: Điều này ảnh hưởng đến 90% bệnh nhân, và nó có thể làm suy yếu khả năng hoạt động tại cơ quan hoặc ở nhà.

Chóng mặt và chóng mặt: Đây là những vấn đề phổ biến, cùng với những khó khăn với sự cân bằng.

Rối loạn chức năng tình dục: Mất quan tâm đến tình dục là phổ biến ở cả nam và nữ.

Co thắt cơ và co thắt: Các dây thần kinh bị tổn thương trong tủy sống và não có thể gây co thắt cơ. Cơ bắp có thể bị cứng và có khả năng chống chuyển động, được gọi là co cứng.

Run rẩy: Có thể có những cử động run rẩy không tự nguyện.

Vấn đề về thị lực: Có thể có thị lực kép hoặc mờ mắt, mất thị lực một phần hoặc toàn bộ hoặc biến dạng mầu đỏ xanh. Điều này thường ảnh hưởng đến một mắt tại một thời điểm. Viêm dây thần kinh thị giác có thể gây đau khi mắt di chuyển.

Thay đổi dáng đi và di chuyển: MS có thể thay đổi cách mọi người đi bộ, vì yếu cơ và các vấn đề về sự cân bằng, chóng mặt và mệt mỏi.

Những thay đổi về cảm xúc và trầm cảm: Demyelination và tổn thương sợi thần kinh trong não có thể gây ra những thay đổi tình cảm, ngoài những thách thức của việc điều chỉnh để chẩn đoán MS, một rối loạn không thể đoán trước, vô hiệu hóa. Nghiên cứu đã liên kết MS với 50% cơ hội trầm cảm.

Các triệu chứng ít phổ biến hơn bao gồm:

  • đau đầu
  • mất thính lực
  • ngứa
  • các vấn đề hô hấp hoặc hô hấp
  • co giật
  • rối loạn ngôn ngữ
  • vấn đề nuốt

Trong các giai đoạn sau, cũng có thể có những thay đổi trong nhận thức và suy nghĩ và độ nhạy nhiệt.

Bệnh đa xơ cứng là một căn bệnh không thể đoán trước, và nó ảnh hưởng đến con người theo những cách khác nhau. Đối với một số người, nó bắt đầu với một cảm giác tinh tế, và hàng tháng hay nhiều năm có thể trôi qua mà không nhận thấy sự tiến triển. Đối với những người khác, các triệu chứng xấu đi nhanh chóng, trong vòng vài tuần hoặc vài tháng.

Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ

Nguyên nhân chính xác của MS là không rõ, nhưng nó được cho là một rối loạn tự miễn dịch. Điều này có nghĩa là hệ thống miễn dịch tấn công myelin như thể nó là một cơ thể ngoài không mong muốn, cũng giống như nó có thể tấn công một loại virus hoặc vi khuẩn.

Các yếu tố nguy cơ bao gồm:

  • Tuổi: Chẩn đoán có nhiều khả năng trong độ tuổi từ 20 đến 50
  • Giới tính: Nhiều phụ nữ phát triển MS hơn nam giới
  • Dân tộc: Nó phổ biến hơn trong số những người gốc châu Âu
  • Các yếu tố di truyền: Tính nhạy cảm có thể được truyền xuống trong các gen

Tỷ lệ MS cao hơn ở những người sống xa đường xích đạo, cho thấy rằng tiếp xúc với ánh sáng mặt trời có thể ảnh hưởng đến nguy cơ MS.

Các yếu tố khác có thể có liên quan đến MS, nhưng không được xác nhận bởi nghiên cứu, bao gồm:

  • Tiếp xúc với chất độc: Đây có thể là kim loại nặng hoặc dung môi.
  • Nhiễm trùng: Vi rút, chẳng hạn như Epstein-Barr, hoặc mononucleosis, và varicella zoster, có thể là tác nhân gây bệnh.
  • Muối: Trong năm 2013, một nghiên cứu cho rằng quá nhiều muối trong chế độ ăn có thể kích hoạt phản ứng tự miễn dịch.

Các lý thuyết trước đây đã bao gồm sự tiếp xúc với sự phân tán chó, chấn thương thể chất, hoặc aspartame, chất tạo ngọt nhân tạo, nhưng không có bằng chứng để hỗ trợ chúng.

Nó không chắc có một kích hoạt duy nhất cho MS, nhưng nó có thể được kích hoạt bởi nhiều yếu tố.

Chẩn đoán

Bác sĩ sẽ thực hiện khám sức khỏe, hỏi về các triệu chứng và xem xét lịch sử y tế của bệnh nhân. Không có xét nghiệm đơn lẻ nào có thể xác định chẩn đoán, vì vậy một số chiến lược là cần thiết khi quyết định liệu bệnh nhân có đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán hay không.

Sẽ có một kỳ thi thần kinh, quét hình ảnh, một bài kiểm tra để đo lường hoạt động điện của não, phân tích dịch tủy sống, và có thể các xét nghiệm khác. Chúng có thể giúp loại trừ các nguyên nhân khác có thể gây ra các triệu chứng.

Dấu hiệu sớm

Theo Viện Rối loạn thần kinh và đột quỵ quốc gia (NINDS), các dấu hiệu ban đầu của MS bao gồm:

  • nhìn mờ hoặc đôi
  • viêm dây thần kinh thị giác, dẫn đến đau mắt và mất thị lực nhanh
  • yếu và cứng khớp ở cơ
  • đau cơ co thắt
  • ngứa ran hoặc tê ở cánh tay, chân, mặt hoặc thân cây
  • vụng về
  • khó khăn còn lại cân bằng khi đi bộ
  • mất kiểm soát bàng quang hoặc đột nhiên cần đi tiểu
  • chóng mặt dai dẳng

Nếu những triệu chứng này xảy ra, người đó nên đi khám bác sĩ.

Điều trị

Không có cách chữa trị bệnh MS, do đó việc điều trị tập trung vào việc ngăn chặn phản ứng tự miễn dịch và kiểm soát các triệu chứng.

Thuốc men

Một số loại thuốc thay đổi bệnh được chấp thuận cho các dạng tái phát của MS.

Corticosteroids: Đây là những loại thuốc được kê toa phổ biến nhất cho MS. Chúng làm giảm viêm và ức chế hệ miễn dịch. Chúng chủ yếu điều trị các triệu chứng bùng phát cấp tính ở một số loại MS nhất định.

Interferon Beta 1a hoặc 1b: Những triệu chứng này có thể làm chậm sự tiến triển của các triệu chứng, nhưng chúng phải được sử dụng thận trọng vì chúng có thể gây tổn thương gan.

Một nghiên cứu dữ liệu cho 868 bệnh nhân kết luận rằng Interferon Beta không hữu ích trong việc ngăn ngừa tình trạng khuyết tật trong thời gian dài.

Copaxone (Glatiramer): Điều này nhằm ngăn chặn hệ miễn dịch tấn công myelin. Nó được tiêm mỗi ngày một lần. Hơi thở và khó thở có thể xảy ra sau khi tiêm.

Tysabri (Natalizumab): Thuốc này được sử dụng cho những bệnh nhân không thể chịu đựng được các phương pháp điều trị khác hoặc không được hưởng lợi từ chúng. Nó làm tăng nguy cơ phát triển bệnh não trắng đa ổ, nhiễm trùng não gây tử vong.

Mitoxantrone (Novantrone): Thuốc ức chế miễn dịch này thường chỉ được sử dụng trong các giai đoạn sau. Nó có thể làm tổn thương tim, nhưng nếu các triệu chứng xấu đi nhanh chóng, nó có thể giúp làm chậm tiến trình khuyết tật.

Chiết xuất cần sa: Các nghiên cứu đã gợi ý rằng điều này có thể giúp giảm đau, cứng cơ và mất ngủ.

Aubagio (teriflunomide): Đây là viên thuốc một lần mỗi ngày dành cho người lớn có dạng MS tái phát.

Phục hồi chức năng

Phục hồi chức năng nhằm mục đích giúp bệnh nhân cải thiện hoặc duy trì khả năng thực hiện hiệu quả ở nhà và tại nơi làm việc.

Các chương trình thường bao gồm:

Vật lý trị liệu: Điều này nhằm mục đích cung cấp cho mọi người những kỹ năng để duy trì và phục hồi chuyển động tối đa và khả năng hoạt động.

Liệu pháp nghề nghiệp: Việc sử dụng trị liệu của các hoạt động công việc, tự chăm sóc và chơi để tăng cường phát triển và ngăn ngừa khuyết tật.

Liệu pháp nói và nuốt: Bác sĩ trị liệu nói và ngôn ngữ sẽ thực hiện đào tạo đặc biệt.

Phục hồi nhận thức: Điều này giúp mọi người quản lý các vấn đề cụ thể trong tư duy và nhận thức.

Phục hồi nghề nghiệp: Điều này giúp người khuyết tật lập kế hoạch nghề nghiệp, học các kỹ năng làm việc, kiếm và giữ việc làm.

Trao đổi plasma

Plasmapheresis liên quan đến việc rút máu từ bệnh nhân, loại bỏ huyết tương, và thay thế nó bằng huyết tương mới. Sau đó máu được truyền lại vào bệnh nhân.

Quá trình này loại bỏ các kháng thể trong máu đang tấn công các bộ phận của cơ thể bệnh nhân, nhưng liệu nó có thể giúp bệnh nhân với MS không rõ ràng. Các nghiên cứu đã tạo ra kết quả hỗn hợp.

Bổ sung vitamin D và Omega-3

Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy mối liên hệ giữa thiếu hụt vitamin D và MS, nhưng họ vẫn đang nghiên cứu xem liệu bổ sung vitamin D có thể giúp điều trị hay không.

Người ta cho rằng bổ sung axit béo omega-3 có thể giúp bệnh nhân bị MS, nhưng các nhà khoa học ở Na Uy kết luận rằng họ không làm như vậy.

Các chất bổ sung khác nhau có thể được mua trực tuyến, bao gồm bổ sung vitamin D và Omega-3. Bệnh nhân không nên dùng thuốc bổ mà không hỏi ý kiến ​​bác sĩ trước.

Điều trị oxy bằng khí áp hyperbaric

Người ta đã gợi ý rằng liệu pháp oxy hyperbaric (HBOT) có thể giúp những người bị MS, nhưng điều này chưa được chứng minh.

Outlook

Sự tiến triển của MS là khác nhau cho mỗi người, do đó rất khó để dự đoán điều gì sẽ xảy ra.

Tuy nhiên, tuổi thọ của một người có MS thường giống như đối với một người không có tình trạng này.

Trong trường hợp hiếm hoi, các triệu chứng có thể gây tử vong.

Chúng tôi đã chọn các mục được liên kết dựa trên chất lượng của sản phẩm và liệt kê các ưu và khuyết điểm của từng sản phẩm để giúp bạn xác định sản phẩm nào phù hợp nhất với bạn. Chúng tôi hợp tác với một số công ty bán các sản phẩm này, có nghĩa là Healthline UK và các đối tác của chúng tôi có thể nhận được một phần doanh thu nếu bạn mua hàng bằng cách sử dụng (các) liên kết ở trên.

Like this post? Please share to your friends: